Banner Top

Nhà văn Đào Xuân Tùng, đồng tác giả tiểu thuyết "Nhãn đầu mùa": Lặng lẽ lưu danh

 

Dường như  cái sự lặng lẽ khiêm nhường của một ai đó có lúc khiến họ bị nhòa đi giữa muôn người, ít người còn nhớ đến những đóng góp to lớn của họ ở những thời khắc đặc biệt. Hình như nhà văn Đào Xuân Tùng là một người như thế nên cả khi ông vĩnh viễn nằm xuống tại cố hương ở làng quê nghèo Diễn Hồng, Diễn Châu, Nghệ An cách căn phòng tập thể 10m2 của ông ở phố Châu Long, Hà Nội gần 300 cây số... thì cả những bạn cũ, người thân từng công tác với ông ở Xí nghiệp Phim truyện Việt Nam phải mấy ngày sau mới biết đồng chí Bí thư Đảng ủy, Trưởng phòng Biên tập của mình, qua đời.

Có cảm giác cả một đời Đào Xuân Tùng chọn cách sống lặng lẽ ấy và biết có thể điều đó khiến mình bị thua thiệt, nhưng mặc, ông vẫn trung thành theo nguyên tắc mà cha ông, một đồ nho, một chiến sĩ cách mạng kiên trung của phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh đã từng dạy.

Đi trước về sau

Trong hồi tưởng của người con trai đầu Đào Xuân Dương (Phó ban Văn hóa - Xã hội HĐND TP Hà Nội) về cha mình thì nhà văn Đào Xuân Tùng là người khiêm nhường lặng lẽ, lặng lẽ như người ẩn dật. Vợ con ở nhà quê xa, hai bố con nhà văn được Xí nghiệp Phim truyện Việt Nam phân cho một căn nhà tập thể rộng vẻn vẹn... 10m2 tại phố Châu Long, Hà Nội. Ông ở đây từ năm 1956 đến lúc về hưu năm 1985 thì phần diện tích ấy cũng không được rộng hơn lên để cho người con trai vừa mới ở lính về.

Người ta khó có thể hình dung làm sao trong cảnh sống ngặt nghèo, chật chội và ồn ã gần khu chợ tạm ấy, nhà văn Đào Xuân Tùng lấy đâu sinh lực để có thể viết nên cuốn tiểu thuyết "Nhãn đầu mùa" với tiếng cười trong trẻo và mối tình đẹp ướt đẫm ánh trăng của những cô gái, chàng trai Đội du kích Hoàng Ngân ở Hưng Yên thời đánh Pháp? Làm sao có thể hình dung chật chội dễ gây ức chế như thế, nhà văn Đào Xuân Tùng lấy đâu sự lạc quan cách mạng và lòng tin yêu ở tương lai để cùng với Cao Đình Báu viết nên kịch bản "Chung một dòng sông", bộ phim nhựa đầu tiên của điện ảnh cách mạng (1959), kể về cuộc đấu tranh bất khuất, lòng thủy chung yêu nước nồng nàn, tinh thần luôn hướng về cách mạng của những người dân sống hai bên bờ sông Bến Hải ngày đất nước bị chia cắt?

Sinh năm 1924, nhà văn Đào Xuân Tùng từng chịu ảnh hưởng rất lớn từ sự giáo dục của người cha, một ông đồ nho, một thầy thuốc vào Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1930-1931 và là người trong nhóm các chiến sĩ cộng sản thành lập chi bộ Đảng đầu tiên ở huyện Diễn Châu, Nghệ An. Ông từng bị thực dân Pháp bắt, sau nhờ thân phụ có quen biết chút đỉnh với Tổng đốc Nghệ An thời đó nên chỉ bị đưa đi đày ở nhà tù Lao Bảo, nhưng được tha lại lao vào hoạt động.

Dẫu trong vòng nô lệ, ngay từ năm 1933-1943, người cha cách mạng ấy đã đưa con trai cả Đào Xuân Tùng vào học tại Trường Quốc học Huế cho đến hết trung học với ý chí để con trai sau này thực hiện sứ mệnh giải phóng cho thế giới đại đồng. (Năm 1956, cha ông có ra Hà Nội tiễn ông đi học điện ảnh ở Trung Quốc và người em Đào Xuân Lâm đi học điện ảnh ở Liên Xô. Cha ông đã dặn đi dặn lại hai anh em phải học để thấm nhuần tư tưởng cách mạng nước bạn để sau về tiếp tục thực hiện được ước mơ thế giới đại đồng).

Sống ở kinh thành Huế với sục sôi phong trào cách mạng, Đào Xuân Tùng vừa học vừa đi dạy thêm kiếm tiền, vừa được giác ngộ về tư tưởng cách mạng. Nhưng là người có học, những ngày tiền khởi nghĩa tháng 8/1945, Đào Xuân Tùng liền trở về xã nhà để làm Bí thư đầu tiên Mặt trận Việt Minh bí mật, Đội trưởng Đội Tự vệ cảm tử tham gia cướp chính quyền ở xã. Phải chăng đây chính là cảm hứng tương phùng, cơ duyên tình cảm để sau này Đào Xuân Tùng chọn Đội Du kích cảm tử Hoàng Ngân của Hưng Yên để dệt nên chuyện tình yêu bất tử của những người du kích quả cảm?

Và đâu phải chỉ có vậy, trước khi trở thành một nhà văn, Đào Xuân Tùng đã lăn lộn khắp các chiến trường khói lửa khu 4 thời chống Pháp. Những năm 1949-1950, ông đảm trách Phó Trưởng ty Thông tin tỉnh Nghệ An và từ năm 1950-1955 lại được giao Trưởng ty Thông tin tuyên truyền tỉnh Thừa Thiên thời kỳ Bình Trị Thiên khói lửa, rồi cán bộ nghiên cứu văn nghệ Quân khu IV.

Có thời gian Đào Xuân Tùng đi chiến dịch Trung Lào. Theo lời con gái ông là chị Đào Thị Quỳnh kể lại thì lần đó ông được tiếp kiến Hoàng thân Lào và được một công chúa của Hoàng gia rất mến mộ do giỏi tiếng Pháp, khuôn mặt chữ điền với mái tóc bồng bềnh gợn sóng toát lên phong thái tự tin, lạc quan cộng với sự hài hước có duyên và tầm hiểu biết sâu rộng lôi cuốn đặc biệt...

Sẽ lý giải thế nào về điều đặc biệt ở nhà văn Đào Xuân Tùng, đó là trong sự nghiệp sáng tác của ông, những tác phẩm văn học và điện ảnh thường ghi dấu ấn cho đời sống nghệ thuật nước nhà... lại thường được viết chung với người đồng điệu? "Chung một dòng sông" (đạo diễn Nguyễn Hồng Nghi - Hiếu Dân) bộ phim đầu tiên của điện ảnh cách mạng thì phần kịch bản lại được sáng tác bởi hai người Đào Xuân Tùng - Cao Đình Báu.

Bộ phim màu đầu tiên của Việt Nam "Ngày ấy bên Sông Lam" (đạo diễn Nguyễn Ngọc Trung) lấy bối cảnh là mảnh đất xứ Nghệ dạt dào tinh thần cách mạng thời kỳ Xô viết - Nghệ Tĩnh lại được viết kịch bản chung với nhà thơ đồng hương Trần Hữu Thung (nổi tiếng với bài thơ "Thăm lúa"). Ngay như cuốn tiểu thuyết "Nhãn đầu mùa", văn chương liền mạch tựa khúc tráng ca mà vẫn ghi danh hai người Đào Xuân Tùng và Trần Thanh, một nhà văn trưởng thành từ lực lượng CAND.

Theo Hồng Thái CAND


Các Tin liên quan